Phân loại kerogen Kerogen

Phá hủy kerogen không ổn định tạo ra các hydrocarbon nặng (như dầu thô), loại chịu lửa tạo ra hydrocarbon nhẹ (như các khí), và loại trơ tạo ra than chì.

Biểu đồ Van Krevelen là một ví dụ dùng để phân loại kerogen, theo đó chúng có khuynh hướng tạo thành các nhóm khi so sánh tỷ số H:C và O:C.[4]

Loại I

Loại II

Tất cả chúng đều có khuynh hướng tạo ra dầu khí và được hình thành từ lipid được lắng trong các điều kiện khử.

Loại II-lưu huỳnh

  • Tương tự loại II nhưng có hàm lượng lưu huỳnh cao.

Loại III

  • Tỷ số hydro:carbon < 1
  • Tỷ số oxy:carbon từ 0,03 đến 0,3
  • Lớp vậy liệu mỏng, giống với gỗ hoặc than.
  • có khuynh hướng tạo ra than và khí (các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng kerogen loại III có thể tạo ra dầu trong các điều kiện khó khăn)
  • Có ít hydro do hệ thống các vòng hydrocacbon thơm và vòng no kéo dài

Kerogen loại III được hình thành từ thực vật lục địa thiếu lipid như cellulose, lignin,và terpen và các hợp chất phenol trong thực vật.

Hầu hết sinh khối biến đổi thành dầu khí đều có sự đóng góp của vi khuẩnprotist, chúng phân hủy các chất nguyên thủy, chứ không phải bản thân sinh vật nguyên thủy. Tuy nhiên, lignin trong kerogen này phân hủy tạo thành các hợp chất phenol gây độc đối với vi khuẩn và protist. Không có nguồn cung cấp vật liệu khổng lồ này thì nó chỉ có thể biến đổi thành mêtan hoặc than.

Loại IV (cặn)

  • Tỷ số hydro:carbon < 0,5

Kerogen loại IV chứa hầu hết các vật chất hữu cơ phân hủy ở dạng hydrocarbon thơm đa vòng. Chúng không có khả năng tạo ra hydrocarbon.

Liên quan